Ý kiến thăm dò

Tình hình kinh tế - xã hội

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
102830

BÀI TUYÊN TRUYỀN: NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG VÀ HẬU QUẢ

Ngày 08/01/2024 21:00:00

 NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG VÀ HẬU QUẢ

 

I. TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG - HẬU QUẢ

1. Tảo hôn: Là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả 2 bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, cụ thể: nữ chưa đủ từ 18 tuối trở lên và nam chưa đủ từ 20 tuổi trở lên mà đã lấy vợ hoặc lấy chồng là tảo hôn, trái với quy định của pháp luật.

Hậu quả của tảo hôn  

- Tảo hôn ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất, tâm, sinh lý nhất là các em gái; khi chưa đủ tuổi trưởng thành, cơ thể chưa phát triển hoàn thiện, việc quan hệ tình dục sớm, mang thai, sinh đẻ, nuôi con sớm khi còn thiếu kiến thức sẽ không đảm bảo được vai trò làm mẹ, khủng hoảng về tâm lý, ảnh hưởng tới quá trình phát triển thể chất tự nhiên của con người, dẫn tới thoái hóa và nhiều di chứng bệnh tật, làm suy kiệt sức khỏe mẹ và con, trẻ sinh ra nhẹ cân, còi cọc, suy dinh dưỡng, dễ bị tử vong ở lứa tuổi từ 1- 5 tuổi.

- Đối với nam giới do chưa phát triển đầy đủ về thế chất, tâm, sinh lý khi phải làm cha sớm, suy thoái giống nòi, giảm chất lượng dân số.

- Nhiều trường họp do bị ép gả lấy chồng, lấy vợ sớm, đôi nam nữ không được tìm hiểu, sinh buồn chán, bế tắc dẫn đến tiêu cực, ly hôn, ly thân, bỏ đi khỏi địa phương, sa vào tai tệ nạn xã hội, có trường hợp tìm cái chết bằng tự tử...

- Do lấy vợ, lấy chồng sớm không có điều kiện học tập, nâng cao trình độ kiến thức và kinh nghiệm sống, không tiếp cận được với các tiến bộ KHKT, mất cơ hội tìm kiếm việc làm.

- Tảo hôn cũng là nguyên nhân của đói nghèo, trẻ em thất học do cặp vợ chồng trẻ còn thiếu kinh nghiệm sống, thiếu vốn, cuộc sống gặp nhiều khó khăn cả vật chất và tinh thần, gánh nặng cho cả gia đình và xã hội.

2. Hôn nhân cận huyết thống: Là hình thức hôn nhân giữa người nam và người nữ trong cùng thân tộc, họ hàng có mối quan hệ huyết thống với nhau theo dòng họ mẹ hoặc dòng họ cha (Hôn nhân có cùng dòng máu trực hệ)

Theo quy định của luật hôn nhân gia đình thì những người có quan hệ thân tộc trong phạm vi 3 đời không được lấy nhau: Đời thứ nhất: Cha, mẹ; đời thứ hai: Anh em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; đời thứ ba: Anh chị em con chú, con bác, con cô con cậu con dì.

Hậu quả của hôn nhân cận huyết thống

- Con sinh ra hay mắc các bệnh di truyền và dị tật như:

+ Sức đề kháng kém, hay mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh tim mạch.

+ Bệnh mù màu (không phân biệt được màu sắc).

+ Bệnh down (đao), đần độn do thiểu năng trí tuệ.

+ Còi cọc, kém phát triển về chiều cao và cân nặng, giảm tuổi thọ.

+ Hay mắc bệnh bạch tạng, bệnh da vảy nến, đặc biệt là bệnh tan máu bẩm sinh, nguy cơ tử vong rất cao.

Những căn bệnh này làm suy kiệt sức khỏe, dẫn tới suy thoái nòi giống của cả một dòng họ, một dân tộc.

- Là gánh nặng của gia đình và xã hội:

+ Nhìn nhận ở góc độ xã hội thì hôn nhân cận huyết là trái với quy định của pháp luật, vì vậy những cặp hôn nhân không được pháp luật thừa nhận luôn có tâm lý mặc cảm, thiếu tự tin trong hòa nhập với cộng đồng.

+ Về góc độ gia đình khi có đứa trẻ sinh ra bị dị tật hoặc phát triển không bình thường thì cha, mẹ, họ hàng thân tộc đều chung tâm trạng ái ngại, buồn chán, tốn kém trong nuôi dưỡng, chăm sóc và chữa trị mà không mang lại tương lai gì tốt đẹp, không duy trì được giống nòi, bản thân trẻ sinh ra không được bình thường trở thành gánh nặng cho gia đình.

II. NGUYÊN NHÂN TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG TRONG VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ

1. Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất: Do ảnh hưởng của những quan niệm, phong tục tập quán lạc hậu: Đã ăn sâu trong nhận thức của người dân từ nhiều đời nay, chi phối mạnh mẽ trong đời sống, sinh hoạt của phần lớn đông bào các dân tộc thiếu số; cụ thể:

Về tảo hôn: Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn còn nặng về phong tục, tập quán; việc lấy vợ, lấy chồng chỉ cần sự đồng ý của những người đứng đầu trong dòng họ, cha mẹ hai bên nam, nữ (thủ tục làm lý) và sự chứng kiến của họ hàng, làng xóm công nhận, các gia đình thường dựng vợ gả chồng cho con từ rất sớm (15 - 17 tuổi, thậm chí 13- 14 tuổi). Vì chưa đủ tuổi theo luật định nên việc kết hôn không được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó sinh ra lẩn tránh hoặc lách luật dưới nhiều hình thức khác nhau như cưới chui, làm lý cúng tổ tiên bỏ qua cưới, chờ đủ tuổi đến chính quyên đăng ký và khai sinh cho con, hoặc khai sinh cho con không khai bố...

+ Quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy; hứa hôn, sớm có chỗ cho con thành vợ, thành chồng.

+ Tục lệ bắt vợ, tục “nối dây”, dẫn đến cưỡng ép hôn nhân sớm.

+ Lấy vợ lấy chồng sớm để có thêm lao động, để có con đàn cháu đống, bậc cha mẹ sớm được lên chức ông, bà... Nữ sớm có chỗ dựa (không sợ ế), nam lấy vợ sẽ nhanh chóng trưởng thành trụ cột, sớm ra ở riêng vì còn đông em trong nhà...

+ Học sinh sau khi học, cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn, tư tưởng các bậc phụ huynh và học sinh bỏ học về đi lao động và lấy vợ, lấy chồng để ổn định cuộc sống...

Về hôn nhân cận huyết thống:

+ Quan niệm cứ khác họ là lấy nhau được, vì vậy con anh, con cô, con chị, con dì ở ngay đời thứ 2, thứ 3 lấy nhau thành vợ, chồng còn khá phổ biến.

Tục lệ thách cưới cao dẫn đến quan niệm kết hôn trong họ tộc sẽ thách cưới ít hơn và để lưu giữ tài sản trong gia đình dòng họ, không mang của cải đi, hoặc chia của cải sang họ khác.

+ Quan niệm trong họ hàng lấy nhau, được gia đình, bố mẹ, con cái hai bên đùm bọc, thương yêu, dễ bảo ban nhau hơn...

+ Nhiều cộng đồng dân tộc sống khép kín trong địa bàn một xã, hoặc 1 thôn ở vùng cao, ít giao tiếp ra bên ngoài, thanh niên lớn lên lấy vợ, lấy chồng quanh quẩn ngay trong dòng tộc...

+ Do đông con nhiều cháu, biết có họ hàng gần, nhưng vì lý do các cặp con cháu yêu nhau, trót lỡ rồi nên bố mẹ, họ hàng đành phải chấp nhận...

Thứ hai: Do tác động, ảnh hưởng của sự phát triền xã hội và lối sống thời hiện đại.

- Thực tế cuộc sống hiện nay, khi đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần ngày càng được nâng cao, cùng với sự bùng nổ về công nghệ thông tin, mạng xã hội, điện thoại di động, băng, đĩa hình và các văn hóa phẩm độc hại đã tác động đến quan niệm sống tự do của lớp trẻ, không còn giữ gìn thuần phong mỹ tục theo quan niệm đạo đức xưa. Vì vậy trai, gái dễ gần gũi như vợ chồng và làm gia tăng tỉ lệ mang thai sớm. Đây cũng là nguyên nhân khách quan làm gia tăng tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vừng dân tộc thiếu số.

b. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất: Do trình độ dân trí và ỷ thức pháp luật của người dân còn hạn chế:

Thực tế cho thấy phần lớn trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống đều rơi vào đối tượng ở vùng cao, thanh niên, phụ nữ ít học, hiểu biết pháp luật hạn chế và việc tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng còn thiếu thốn khó khăn, một số trường hợp cả các bậc cha mẹ và con cái biết vi phạm nhưng vẫn cố ý lách luật.

Thứ hai: Công tác tuyên truyền còn hạn chế và hiệu quả chưa cao.

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình đã được chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội, các cơ quan pháp luật quan tâm, nhưng vẫn còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế, công tác tổ chức tuyên truyền ở cơ sở chưa được thường xuyên, hình thức, phương pháp tuyên truyền chưa sâu rộng, thiếu sắc bén, thiếu kỹ năng, nặng về hình thức răn đe, thiếu cảm hóa, thuyết phục, thiếu đội ngũ làm công tác tuyên truyền là người địa phương nên việc đưa thông tin pháp luật đến với vùng đồng bào dân trí thấp, không biết chữ, chưa thông thạo tiếng phố thông không mang lại hiệu quả.

Thứ ba: Do nhữnng bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình và các quy định pháp luật liên quan

Chế tài xử phạt chưa đủ răn đe, hình thức chủ yếu dừng lại ở mức xử lý là nộp phạt hành chính (Theo Nghị định 110/2013/NĐ-CP, mức phạt áp dụng đối với các hành vi vi phạm quy định tại điều 47... ở mức từ 500.000đ – 1.000.000đ – 3.000.000 đ). Gia đình và các cặp tảo hôn sẵn sàng thực hiện nộp phạt và coi như đã xong, sau đó vê sống chung thành vợ chồng...

Về các trường hợp cấm kết hôn, hủy kết hôn trái pháp luật giữa những người có họ trong phạm vi ba đời không có tính khả thi khi áp dụng thực tế ở vùng dân tộc thiểu số, khi họ hàng, hai bên gia đình đồng ý cho các cặp có họ lấy nhau thì chính quyền, các tổ chức đoàn thể chưa có biện pháp can thiệp rõ ràng.

Thứ tư: Sự can thiệp từ phía chính quyên địa phương đối với các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống chưa mạnh mẽ, thiếu kiên quyết.

Việc cải tạo, loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu nói chung, loại bỏ tục tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống nói riêng ra khỏi đời sống xã hội vùng dân tộc thiếu số chưa đạt được hiệu quả cao có nguyên nhân rất quan trọng là do sự can thiệp thiếu mạnh mẽ, thiếu kiên quyết từ phía chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở, thực tế cho thấy cán bộ thực thi pháp luật ở cơ sở đều ngại va chạm với loại hình vi phạm này, chủ yếu tập trung vào việc xử phạt hành chính và không cho đăng ký kết hôn, khi họ cố tình đến ở với nhau thì chính quyền lại thụ động, lúng túng, không giải quyết triệt để. (Không muốn mất lòng, mất uy tín vì bản thân cũng là một công dân sống cùng trong cộng đồng đó...)

Về ý thức, không chỉ những người dân mà cả cán bộ, Đảng viên là lãnh đạo xã, phường ở một số nơi cũng đồng tình tiếp tay, vẫn đến dự đám cưới tảo hôn, có trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống diễn ra ngay trong gia đình, dòng họ cán bộ, Đảng viên.

Tâm lý sợ mất thành tích thi đua dẫn đến che giấu cho việc tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống còn khá phố biến ở cơ sở.

Việc sửa đổi quy ước, hương ước thôn, bản, dòng họ chưa kịp thời, đến nay vẫn còn nhiều nơi quy định phạt tảo hôn bằng vật chất (lợn, gà, rượu..) sau đó tố chức ăn uống như kiểu liên hoan để công nhận cho họ, vô hình gây phản tác dụng giáo dục.

Một số huyện chưa thực sự quan tâm chỉ đạo công tác phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trên địa bàn.

Thứ năm: Vai trò của Mặt trận Tô quốc, các đoàn thể quần chúng ở cơ sở hoạt động còn hạn chế, khó khăn:

Qua khảo sát thực tế cơ sở cho thấy, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ về cơ bản đều nắm được các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết trên địa bàn, nhưng thiếu chủ động trong vai trò phối hợp giáo dục, thuyết phục, vận động, chưa tạo được phong trào mạnh mẽ trong quần chúng về phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.

Người thực hiện: Công chức Tư pháp - Hộ tịch.

BÀI TUYÊN TRUYỀN: NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG VÀ HẬU QUẢ

Đăng lúc: 08/01/2024 21:00:00 (GMT+7)

 NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG VÀ HẬU QUẢ

 

I. TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG - HẬU QUẢ

1. Tảo hôn: Là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả 2 bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, cụ thể: nữ chưa đủ từ 18 tuối trở lên và nam chưa đủ từ 20 tuổi trở lên mà đã lấy vợ hoặc lấy chồng là tảo hôn, trái với quy định của pháp luật.

Hậu quả của tảo hôn  

- Tảo hôn ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất, tâm, sinh lý nhất là các em gái; khi chưa đủ tuổi trưởng thành, cơ thể chưa phát triển hoàn thiện, việc quan hệ tình dục sớm, mang thai, sinh đẻ, nuôi con sớm khi còn thiếu kiến thức sẽ không đảm bảo được vai trò làm mẹ, khủng hoảng về tâm lý, ảnh hưởng tới quá trình phát triển thể chất tự nhiên của con người, dẫn tới thoái hóa và nhiều di chứng bệnh tật, làm suy kiệt sức khỏe mẹ và con, trẻ sinh ra nhẹ cân, còi cọc, suy dinh dưỡng, dễ bị tử vong ở lứa tuổi từ 1- 5 tuổi.

- Đối với nam giới do chưa phát triển đầy đủ về thế chất, tâm, sinh lý khi phải làm cha sớm, suy thoái giống nòi, giảm chất lượng dân số.

- Nhiều trường họp do bị ép gả lấy chồng, lấy vợ sớm, đôi nam nữ không được tìm hiểu, sinh buồn chán, bế tắc dẫn đến tiêu cực, ly hôn, ly thân, bỏ đi khỏi địa phương, sa vào tai tệ nạn xã hội, có trường hợp tìm cái chết bằng tự tử...

- Do lấy vợ, lấy chồng sớm không có điều kiện học tập, nâng cao trình độ kiến thức và kinh nghiệm sống, không tiếp cận được với các tiến bộ KHKT, mất cơ hội tìm kiếm việc làm.

- Tảo hôn cũng là nguyên nhân của đói nghèo, trẻ em thất học do cặp vợ chồng trẻ còn thiếu kinh nghiệm sống, thiếu vốn, cuộc sống gặp nhiều khó khăn cả vật chất và tinh thần, gánh nặng cho cả gia đình và xã hội.

2. Hôn nhân cận huyết thống: Là hình thức hôn nhân giữa người nam và người nữ trong cùng thân tộc, họ hàng có mối quan hệ huyết thống với nhau theo dòng họ mẹ hoặc dòng họ cha (Hôn nhân có cùng dòng máu trực hệ)

Theo quy định của luật hôn nhân gia đình thì những người có quan hệ thân tộc trong phạm vi 3 đời không được lấy nhau: Đời thứ nhất: Cha, mẹ; đời thứ hai: Anh em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; đời thứ ba: Anh chị em con chú, con bác, con cô con cậu con dì.

Hậu quả của hôn nhân cận huyết thống

- Con sinh ra hay mắc các bệnh di truyền và dị tật như:

+ Sức đề kháng kém, hay mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh tim mạch.

+ Bệnh mù màu (không phân biệt được màu sắc).

+ Bệnh down (đao), đần độn do thiểu năng trí tuệ.

+ Còi cọc, kém phát triển về chiều cao và cân nặng, giảm tuổi thọ.

+ Hay mắc bệnh bạch tạng, bệnh da vảy nến, đặc biệt là bệnh tan máu bẩm sinh, nguy cơ tử vong rất cao.

Những căn bệnh này làm suy kiệt sức khỏe, dẫn tới suy thoái nòi giống của cả một dòng họ, một dân tộc.

- Là gánh nặng của gia đình và xã hội:

+ Nhìn nhận ở góc độ xã hội thì hôn nhân cận huyết là trái với quy định của pháp luật, vì vậy những cặp hôn nhân không được pháp luật thừa nhận luôn có tâm lý mặc cảm, thiếu tự tin trong hòa nhập với cộng đồng.

+ Về góc độ gia đình khi có đứa trẻ sinh ra bị dị tật hoặc phát triển không bình thường thì cha, mẹ, họ hàng thân tộc đều chung tâm trạng ái ngại, buồn chán, tốn kém trong nuôi dưỡng, chăm sóc và chữa trị mà không mang lại tương lai gì tốt đẹp, không duy trì được giống nòi, bản thân trẻ sinh ra không được bình thường trở thành gánh nặng cho gia đình.

II. NGUYÊN NHÂN TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG TRONG VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ

1. Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất: Do ảnh hưởng của những quan niệm, phong tục tập quán lạc hậu: Đã ăn sâu trong nhận thức của người dân từ nhiều đời nay, chi phối mạnh mẽ trong đời sống, sinh hoạt của phần lớn đông bào các dân tộc thiếu số; cụ thể:

Về tảo hôn: Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn còn nặng về phong tục, tập quán; việc lấy vợ, lấy chồng chỉ cần sự đồng ý của những người đứng đầu trong dòng họ, cha mẹ hai bên nam, nữ (thủ tục làm lý) và sự chứng kiến của họ hàng, làng xóm công nhận, các gia đình thường dựng vợ gả chồng cho con từ rất sớm (15 - 17 tuổi, thậm chí 13- 14 tuổi). Vì chưa đủ tuổi theo luật định nên việc kết hôn không được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó sinh ra lẩn tránh hoặc lách luật dưới nhiều hình thức khác nhau như cưới chui, làm lý cúng tổ tiên bỏ qua cưới, chờ đủ tuổi đến chính quyên đăng ký và khai sinh cho con, hoặc khai sinh cho con không khai bố...

+ Quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy; hứa hôn, sớm có chỗ cho con thành vợ, thành chồng.

+ Tục lệ bắt vợ, tục “nối dây”, dẫn đến cưỡng ép hôn nhân sớm.

+ Lấy vợ lấy chồng sớm để có thêm lao động, để có con đàn cháu đống, bậc cha mẹ sớm được lên chức ông, bà... Nữ sớm có chỗ dựa (không sợ ế), nam lấy vợ sẽ nhanh chóng trưởng thành trụ cột, sớm ra ở riêng vì còn đông em trong nhà...

+ Học sinh sau khi học, cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn, tư tưởng các bậc phụ huynh và học sinh bỏ học về đi lao động và lấy vợ, lấy chồng để ổn định cuộc sống...

Về hôn nhân cận huyết thống:

+ Quan niệm cứ khác họ là lấy nhau được, vì vậy con anh, con cô, con chị, con dì ở ngay đời thứ 2, thứ 3 lấy nhau thành vợ, chồng còn khá phổ biến.

Tục lệ thách cưới cao dẫn đến quan niệm kết hôn trong họ tộc sẽ thách cưới ít hơn và để lưu giữ tài sản trong gia đình dòng họ, không mang của cải đi, hoặc chia của cải sang họ khác.

+ Quan niệm trong họ hàng lấy nhau, được gia đình, bố mẹ, con cái hai bên đùm bọc, thương yêu, dễ bảo ban nhau hơn...

+ Nhiều cộng đồng dân tộc sống khép kín trong địa bàn một xã, hoặc 1 thôn ở vùng cao, ít giao tiếp ra bên ngoài, thanh niên lớn lên lấy vợ, lấy chồng quanh quẩn ngay trong dòng tộc...

+ Do đông con nhiều cháu, biết có họ hàng gần, nhưng vì lý do các cặp con cháu yêu nhau, trót lỡ rồi nên bố mẹ, họ hàng đành phải chấp nhận...

Thứ hai: Do tác động, ảnh hưởng của sự phát triền xã hội và lối sống thời hiện đại.

- Thực tế cuộc sống hiện nay, khi đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần ngày càng được nâng cao, cùng với sự bùng nổ về công nghệ thông tin, mạng xã hội, điện thoại di động, băng, đĩa hình và các văn hóa phẩm độc hại đã tác động đến quan niệm sống tự do của lớp trẻ, không còn giữ gìn thuần phong mỹ tục theo quan niệm đạo đức xưa. Vì vậy trai, gái dễ gần gũi như vợ chồng và làm gia tăng tỉ lệ mang thai sớm. Đây cũng là nguyên nhân khách quan làm gia tăng tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vừng dân tộc thiếu số.

b. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất: Do trình độ dân trí và ỷ thức pháp luật của người dân còn hạn chế:

Thực tế cho thấy phần lớn trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống đều rơi vào đối tượng ở vùng cao, thanh niên, phụ nữ ít học, hiểu biết pháp luật hạn chế và việc tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng còn thiếu thốn khó khăn, một số trường hợp cả các bậc cha mẹ và con cái biết vi phạm nhưng vẫn cố ý lách luật.

Thứ hai: Công tác tuyên truyền còn hạn chế và hiệu quả chưa cao.

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình đã được chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội, các cơ quan pháp luật quan tâm, nhưng vẫn còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế, công tác tổ chức tuyên truyền ở cơ sở chưa được thường xuyên, hình thức, phương pháp tuyên truyền chưa sâu rộng, thiếu sắc bén, thiếu kỹ năng, nặng về hình thức răn đe, thiếu cảm hóa, thuyết phục, thiếu đội ngũ làm công tác tuyên truyền là người địa phương nên việc đưa thông tin pháp luật đến với vùng đồng bào dân trí thấp, không biết chữ, chưa thông thạo tiếng phố thông không mang lại hiệu quả.

Thứ ba: Do nhữnng bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình và các quy định pháp luật liên quan

Chế tài xử phạt chưa đủ răn đe, hình thức chủ yếu dừng lại ở mức xử lý là nộp phạt hành chính (Theo Nghị định 110/2013/NĐ-CP, mức phạt áp dụng đối với các hành vi vi phạm quy định tại điều 47... ở mức từ 500.000đ – 1.000.000đ – 3.000.000 đ). Gia đình và các cặp tảo hôn sẵn sàng thực hiện nộp phạt và coi như đã xong, sau đó vê sống chung thành vợ chồng...

Về các trường hợp cấm kết hôn, hủy kết hôn trái pháp luật giữa những người có họ trong phạm vi ba đời không có tính khả thi khi áp dụng thực tế ở vùng dân tộc thiểu số, khi họ hàng, hai bên gia đình đồng ý cho các cặp có họ lấy nhau thì chính quyền, các tổ chức đoàn thể chưa có biện pháp can thiệp rõ ràng.

Thứ tư: Sự can thiệp từ phía chính quyên địa phương đối với các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống chưa mạnh mẽ, thiếu kiên quyết.

Việc cải tạo, loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu nói chung, loại bỏ tục tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống nói riêng ra khỏi đời sống xã hội vùng dân tộc thiếu số chưa đạt được hiệu quả cao có nguyên nhân rất quan trọng là do sự can thiệp thiếu mạnh mẽ, thiếu kiên quyết từ phía chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở, thực tế cho thấy cán bộ thực thi pháp luật ở cơ sở đều ngại va chạm với loại hình vi phạm này, chủ yếu tập trung vào việc xử phạt hành chính và không cho đăng ký kết hôn, khi họ cố tình đến ở với nhau thì chính quyền lại thụ động, lúng túng, không giải quyết triệt để. (Không muốn mất lòng, mất uy tín vì bản thân cũng là một công dân sống cùng trong cộng đồng đó...)

Về ý thức, không chỉ những người dân mà cả cán bộ, Đảng viên là lãnh đạo xã, phường ở một số nơi cũng đồng tình tiếp tay, vẫn đến dự đám cưới tảo hôn, có trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống diễn ra ngay trong gia đình, dòng họ cán bộ, Đảng viên.

Tâm lý sợ mất thành tích thi đua dẫn đến che giấu cho việc tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống còn khá phố biến ở cơ sở.

Việc sửa đổi quy ước, hương ước thôn, bản, dòng họ chưa kịp thời, đến nay vẫn còn nhiều nơi quy định phạt tảo hôn bằng vật chất (lợn, gà, rượu..) sau đó tố chức ăn uống như kiểu liên hoan để công nhận cho họ, vô hình gây phản tác dụng giáo dục.

Một số huyện chưa thực sự quan tâm chỉ đạo công tác phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trên địa bàn.

Thứ năm: Vai trò của Mặt trận Tô quốc, các đoàn thể quần chúng ở cơ sở hoạt động còn hạn chế, khó khăn:

Qua khảo sát thực tế cơ sở cho thấy, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ về cơ bản đều nắm được các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết trên địa bàn, nhưng thiếu chủ động trong vai trò phối hợp giáo dục, thuyết phục, vận động, chưa tạo được phong trào mạnh mẽ trong quần chúng về phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.

Người thực hiện: Công chức Tư pháp - Hộ tịch.

công khai TTHC